#051 | Điều kiện áp dụng phạt vi phạm hợp đồng: Phải có thỏa thuận

12/26/2023

Tình tiết sự kiện:

ty M (Nguyên đơn) ký hợp đồng với Công ty T (Bị đơn) để thi công công việc chống thấm cho một tòa nhà. Sau đó hai Bên có tranh chấp và có yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, yêu cầu phạt vi phạm này không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận.

Bài học kinh nghiệm:

Trong thực tế, nhiều khi chúng ta gặp trường hợp một bên cho rằng bên kia đã vi phạm hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm chịu phạt vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp nào, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng được chấp nhận? Trong vụ việc nêu trên, Bị đơn yêu cầu Nguyên đơn chịu “Phạt vi phạm 12% trên giá trị hợp đồng là: 414.960.000 VND”. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài đã cho rằng “khi xem xét hợp đồng được ký kết giữa các Bên, Hội đồng Trọng tài không tìm thấy Điều khoản về phạt hợp đồng. Đối chiếu với quy định của Điều 300 Luật Thương mại năm 2005 thì yêu cầu này của Bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận”.

Phạt vi phạm hợp đồng là chế định được khai thác nhiều trong thực tế và hiện nay Bộ luật dân sự cũng như Luật Thương mại năm 2005 đều có quy định về chủ đề này. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 422 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015, “phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Về phía mình, Điều 300 Luật Thương mại năm 2005 quy định phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận”. Như vậy, dù áp dụng Bộ luật dân sự hay Luật Thương mại năm 2005, bản thân việc một bên vi phạm hợp đồng chưa đủ để áp dụng phạt vi phạm hợp đồng. Để có thể phạt vi phạm hợp đồng, điều kiện cần thiết nữa là các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng và đây là điểm khác biệt với bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng: Bồi thường thiệt hại được áp dụng khi đáp ứng các điều kiện luật định mà không cần có thỏa thuận về khả năng bồi thường trong khi đó, khi muốn phạt vi phạm hợp đồng, cần có thỏa thuận của các bên về khả năng phạt vi phạm hợp đồng.

Trong vụ việc trên, một bên yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng đối với bên kia nhưng lại không cho thấy các bên đã có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng. Do đó, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng không được chấp nhận là điều dễ hiểu. Từ đó, doanh nghiệp cần lưu ý rằng nếu họ muốn phạt vi phạm bên vi phạm thì họ phải thỏa thuận về khả năng phạt vi phạm hợp đồng trước khi có việc vi phạm và phải chứng minh được sự tồn tại của thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng. Nếu không, như chúng ta đã thấy, yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng sẽ không được chấp nhận cho dù có việc vi phạm hợp đồng.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • Trường Đại học Luật Tp.HCM
    VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI